Chính sách của Việt Nam về bình đẳng giới

Việt Nam đã và đang xây dựng khung khổ pháp luật quốc gia về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ khá tiến bộ, bao gồm các chính sách thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Luật Bình đẳng giới - Luật số 73/2006/QH 11 ngày 29/11/2006, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 đều nhằm mục tiêu: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”.

Việt Nam xác định: Bình đẳng là thước đo sự phát triển của xã hội hiện đại, là một trong những tiêu chí đánh giá gia đình hạnh phúc. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 khẳng định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” (Điều 26).

Bình đẳng giới ở Việt Nam được quy định ở nhiều điều luật.
Bình đẳng giới ở Việt Nam được quy định ở nhiều điều luật.

Luật Bình đẳng giới - Luật số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006 khẳng định “vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình; có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình; bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình” (Điều 18)(1).

Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, tại Mục tiêu 5.4 xác định: “Bảo đảm bình đẳng trong việc nội trợ và chăm sóc gia đình; công nhận việc nội trợ và các chăm sóc không được trả phí; tăng cường các dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và các chính sách bảo trợ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ gia đình, chăm sóc trẻ em (Mục tiêu 5.4 toàn cầu)” (2).

Ngoài ra, theo Luật Bảo hiểm xã hội - Luật số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động... Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội (3).

Bộ luật Lao động - Bộ luật số 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019 quy định: Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình(4).

Bộ luật số 45/2019/QH14 còn quy định rõ, nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam, nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được dành thời gian trong thời gian lao động để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì kết hôn, có thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, Bộ luật quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ lên 6 tháng.

Luật Hôn nhân và gia đình - Luật số 52/2014/QH13 ban hành ngày 19/06/2014 cũng khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau... Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình;...

Bộ luật Hình sự - Luật số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 (5) đã thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người, đã quy định những tội phạm liên quan đến phụ nữ, các điều luật bảo vệ quyền của phụ nữ: Hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52) và cũng là tình tiết tăng nặng định khung: Giết phụ nữ mà biết là có thai (Điều 123), cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ đối với phụ nữ đang có thai (Điều 134),...

Bên cạnh đó, Luật số 100/2015/QH13 cũng thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý tội phạm là nữ giới; có chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Nhà nước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nhà nước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.

Chính sách nhân đạo, khoan hồng được thể hiện cả trong việc áp dụng hình phạt và thi hành án: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Có thể thấy rằng, quyền của phụ nữ Việt Nam trong các văn bản pháp luật nêu trên, đều thể hiện rõ hai yếu tố căn bản đó là “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế và trong đời sống gia đình. Còn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ hưu...) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Pháp luật Việt Nam cũng có những chế tài cứng rắn thể hiện quan điểm bình đẳng giới. Cụ thể, tại Điều 41, Luật Bình đẳng giới - Luật số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (1), các hành vi sau đây được coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình: Một là, cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. Hai là, không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới. Ba là, đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. Bốn là, hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính. Năm là, áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.

Bên cạnh đó, Luật số 73/2006/QH11 cũng quy định(1) “Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới”, trong đó bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. Áp dụng những biện pháp thích hợp để xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới. Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước...

Từ các chính sách, quy định của pháp luật nêu trên, có thể thấy, hệ thống pháp luật về bình đẳng giới của nước ta đang ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập quốc tế của đất nước. Quyền bình đẳng và cơ hội của phụ nữ, nam giới, nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ mang thai, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số… được quan tâm và thể hiện trong chiến lược các chương trình, các đề án, nhằm thực hiện mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau".


Tài liệu tham khảo:

(1) Luật số 73/2006/QH11 của Quốc hội: Luật Bình đẳng giới

(2) Quyết định số 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững

(3) Luật số 58/2014/QH13 của Quốc hội: LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI

(4) Luật số 45/2019/QH14 của Quốc hội: Bộ Luật Lao động

(5) Luật số 52/2014/QH13 của Quốc hội: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

(6) Luật số 100/2015/QH13 của Quốc hội: Bộ Luật Hình sự

Theo Viện KH-CS&PL Copy link

Bình luận bài viết

5.0 (0 đánh giá)
5
0
4
0
3
0
2
0
1
0
Chưa có file đính kèm
Đánh giá bài viết

Các bài viết khác

Đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong sử dụng lao động ở Việt Nam

Bình đẳng giới trong lao động không chỉ là một vấn đề xã hội mà còn là một yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
22/12/2024

Bình đẳng giới - Vấn đề xã hội mang tính toàn cầu

Bình đẳng giới (phụ nữ và nam giới được hưởng các cơ hội, quyền và nghĩa vụ như nhau trong mọi lĩnh vực của cuộc sống) là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Vấn đề này được Liên Hiệp quốc và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải quyết, nhằm đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
21/12/2024

Trao giải Báo chí toàn quốc về Bình đẳng giới năm 2024

Mới đây, tại Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women) phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam đã tổ chức Lễ trao giải Báo chí toàn quốc về bình đẳng giới năm 2024.
20/12/2024

Nỗ lực nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi, rút ngắn khoảng cách về giới tính trong đời sống xã hội

Trong khuôn khổ “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2024” (từ ngày 15/11 đến ngày 15/12) vừa qua, nhiều hoạt động đã được tổ chức trên toàn quốc, tập trung vào chủ đề bảo đảm an sinh xã hội, tăng quyền năng và tạo cơ hội cho phụ nữ, trẻ em gái; hướng tới chuyển đổi hành vi, rút ngắn khoảng cách về giới trong đời sống xã hội.
20/12/2024

Bình đẳng giới trong sử dụng lao động ở Việt Nam: Thực trạng và thách thức

Bình đẳng giới trong sử dụng lao động là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu. Trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, việc đảm bảo quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, bất kể giới tính hay bản dạng giới, trở thành một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững. Mặc dù Việt Nam đã có những quy định pháp luật rõ ràng về bình đẳng giới trong lao động, nhưng thực trạng vẫn còn nhiều thách thức. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi đồng bộ từ cả hệ thống pháp luật lẫn nhận thức của cộng đồng để xây dựng một môi trường làm việc công bằng, nơi mọi người đều có cơ hội phát triển và đóng góp cho xã hội.
19/12/2024

Thành tựu đáng kể của Việt Nam khi thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới

Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ báo cáo về kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Trong bối cảnh toàn cầu đang dần chuyển mình mạnh mẽ, việc Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực bình đẳng giới không chỉ thể hiện nỗ lực của Chính phủ mà còn là dấu hiệu cho sự tiến bộ trong nhận thức và hành động của toàn xã hội.
18/12/2024

Bình đẳng giới tại Thụy Điển: Thiên đường của phụ nữ và những điều có thể áp dụng tại Việt Nam

Thụy Điển là một quốc gia Bắc Âu nổi bật với diện tích lớn thứ ba trong Liên minh châu Âu, không chỉ được biết đến với vẻ đẹp thiên nhiên và hệ thống phúc lợi xã hội phát triển mà còn là một hình mẫu điển hình về bình đẳng giới.
17/12/2024

Hà Nội: Đại hội điểm tại chi bộ trực thuộc Đảng bộ trấn Quang Minh, huyện Mê Linh

Ngày 15/12/2024, Chi bộ Tổ dân phố số 5 đã tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025 - 2027. Đây là đơn vị được Đảng uỷ Thị trấn Quang Minh chọn là đại hội điểm trước khi đại hội trên diện rộng.
16/12/2024

Cùng nhau san sẻ yêu thương: Hỗ trợ người mẹ trẻ khó khăn, nuôi 3 con nhỏ tại xã vùng cao Hà Giang

Tại thôn Nậm Sái, xã Nà Chì, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, một câu chuyện đầy đau thương đang diễn ra và cần sự hỗ trợ từ cộng đồng. Hoàng Thị Trực, một người mẹ trẻ sinh năm 1998, vừa phải gánh chịu nỗi mất mát quá lớn khi chồng cô qua đời do đột quỵ vào ngày 23/11 vừa qua. Trực đang sống cùng ba đứa con nhỏ, trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn trầm trọng.
12/12/2024

Phái đoàn Cụm thi đua Thanh tra Sở Văn hoá các tỉnh Đồng bằng sông Hồng về chùa Cây Thị lễ Phật

Chiều 5/11, Phái đoàn Cụm thi đua Thanh tra Sở Văn hoá các tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã có chuyến viếng thăm đầy ý nghĩa đến chùa Cây Thị, nơi đây không chỉ là một địa điểm tôn nghiêm mà còn là biểu tượng cho những nỗ lực trong công tác thi đua khen thưởng của các tỉnh trong khu vực.
08/12/2024

Hà Nội: Thị trấn Quang Minh (Mê Linh) tổ chức bầu cử tổ trưởng tổ dân phố nhiệm kỳ 2024-2027

Thực hiện Kế hoạch số 122/KH-UBND ngày 30/8/2024 của UBND thị trấn Quang Minh về việc bầu cử tổ trưởng tổ dân phố nhiệm kỳ 2024-2027. Ngày 10/11/2024, cuộc bầu cử tổ trưởng tổ dân phố đã được diễn ra tại các điểm bầu cử của 10 tổ dân phố.
11/11/2024

Phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực báo chí - truyền thông

Ngày 8/11, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Quan điểm, định hướng giải pháp tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí-truyền thông Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.” Sự kiện này nằm trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp nhà nước nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí-truyền thông Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
08/11/2024