- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam;
- Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam TP. Hồ Chí Minh;
- Nguyên Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam;
- Nguyên Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Giáo dục Tăng ni Thành hội Phật giáo Việt Nam TP. Hồ Chí Minh;
- Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học TP. Hồ Chí Minh.

I. Thân thế
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Sáu, sinh ngày 1 tháng 3 năm Mậu Thìn (1928), tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cũ (nay là tỉnh Đồng Tháp), ngài sinh trưởng trong gia đình nhiều đời kính tin tam bảo.
II. Xuất gia học đạo
Năm 18 tuổi (1945), ngài phát tâm xuất gia với Hòa Thượng Thích Hồng Châu - trụ trì Chùa Phù Châu, tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cũ (nay là xã Cái Bè, tỉnh Đồng Tháp), và được bổn sư ban cho pháp danh là Nhựt Thuần - thuộc dòng thiền Lâm tế gia phổ. Pháp danh Nhựt Thuần xuất phát từ dòng kệ truyền thừa:
“Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên (導本原成佛祖先)
Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên (明如紅明如紅日麗中天)
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ (靈源廣潤慈風溥)
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền (照世真燈萬古懸).”
Sau khi xuất gia, ngài bước đầu thực hành nếp sống thiền môn và chấp tác tinh cần trong quãng thời gian ở chùa quê. Tuy nhiên, ngài nhận thấy đời sống tu hành vẫn còn nhiều hạn chế bởi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tín ngưỡng dân gian và hình thức cúng kiến không cần thiết.
Năm 1946, sau một năm xuất gia, ngài lên Sài Gòn tầm sư học đạo, theo học chương trình hệ 12 năm tại Phật học đường Sùng Đức (Chợ Lớn), dưới sự hướng dẫn của Hòa Thượng Huyền Dung. Năm 1948, tại nơi đây ngài được đăng đàn thọ giới cụ túc, do Hòa thượng Huyền Dung làm hòa thượng đàn đầu truyền giới. Từ đây, ngài chính thức dự vào hàng cập đệ - chúng trung tôn, nhận trọng trách “sứ giả Như Lai”.

Vào năm 1950, dưới sự vận động của Hòa thượng Thích Thiện Hòa, các vị tôn túc lãnh đạo các Phật học đường Mai Sơn, Liên Hải và Sùng Đức lúc bấy giờ, như: HT. Thích Trí Tịnh, HT. Thích Quảng Minh và HT. Thích Huyền Dung… đều đồng ý hợp nhất các Phật học đường nêu trên, với tên gọi mới là Phật học đường Nam Việt, đặt tại Chùa Ấn Quang (Sài Gòn). Nơi đây được xem là trung tâm Phật học, không chỉ nổi tiếng vào hàng bậc nhất của miền Nam, mà còn là trung tâm đào tạo nhiều bậc anh tài Phật giáo khắp ba miền, trong suốt gần 50 năm, cuối của thế kỷ XX.
Tại phật học đường này, ngài tiếp tục tu học, và là một trong những vị học tăng khóa thứ hai của Phật học đường Nam Việt; ngài học cùng khóa với các chư huynh đệ mà sau này là những bậc pháp khí thiền gia như: Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Huyền Vi, Hòa Thượng Thiền Định, Hòa Thượng Hoàn Quan, ... đồng thời, ngài còn thọ giáo với các bậc danh tăng lỗi lạc đương thời như: tổ Thiện Hòa, tổ Thiện Hoa, tổ Trí Tịnh,… – đều là những vị đã dày công uốn nắn, giáo dục và truyền thọ cho ngài phần gia bảo vô giá mà các vị đã thừa kế sự nghiệp của Như Lai để lại. Khoảng thời gian này, ngài cũng là vị giáo thọ trẻ vừa học và vừa dạy lại các huynh đệ khóa sau.
Năm 1957, ngài tốt nghiệp chương trình cao đẳng phật học tại Phật học đường Nam Việt - Ấn Quang. Năm 1958, sau khi tốt nghiệp, ngài trở thành vị giáo thọ đi vân du hành đạo tại các trường phật học tại Sài gòn, cũng như ở khắp các tỉnh miền đông và miền tây Nam bộ. Vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, ngài từng đảm nhiệm trụ trì Chùa Phật Học Lưỡng Xuyên (Long Phước tự), tỉnh Trà Vinh.
Năm 1959, ngài đã chính thức trở thành vị pháp sư cùng với các pháp hữu - Huyền Vi, Thanh Từ, Thiền Định, Hoàn Quan. Năm 1963, diễn ra pháp nạn Phật giáo chống chế độ Ngô Đình Diệm, ngài ẩn tu và tạm hoãn mọi hoạt động trong năm này.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, tình hình phật giáo tại miền Nam Việt Nam đã ổn định hơn, ngài tiếp tục hoạt động giảng dạy tại các phật học viện tiêu biểu như: Chùa Ấn Quang, Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Linh Sơn Cổ tự, chùa Thiên Phước, Tịnh xá Từ Thuyền, chùa Phổ Đà và các Phật học đường do ngài sáng lập như Huỳnh Kim, Phổ Quang …; cũng trong năm này, ngài kiến tạo Tịnh thất Huỳnh Mai (tỉnh Gia Định).
Giai đoạn trước năm 1975, cuộc đời hành đạo của ngài luôn quây quần hoạt động giảng dạy ở phạm vi các trường phật học, cho nên về phương diện dạy học của ngài gần như âm thầm lặng lẽ, vì vậy xã hội lúc bấy giờ, ít người quan tâm và chẳng mấy ai biết đến.
Sau khi nước nhà thống nhất năm 1975, ngài tham gia vào ban liên lạc Phật giáo yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh do Hòa Thượng Thích Minh Nguyệt làm chủ tịch. Năm 1978, ngài đảm nhiệm Phó tổng lý đặc trách kế hoạch – Hội đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang nhiệm kỳ 1 (1978 – 1991).
Năm 1981, ngài tham gia thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, tổ chức tại Chùa Quán Sứ (thủ đô Hà Nội), với tư cách là thành viên trong đoàn đại biểu Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại đại hội phật giáo toàn quốc lần thứ nhất (1981 - 1987), ngài được bầu làm ủy viên Hội đồng trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Năm 1989, Trường Cơ bản Phật học Thành Phố Hồ Chí Minh được thành lập, đặt tại Chùa Vĩnh Nghiêm (quận 3, TP.HCM), ngài được Thành hội Phật giáo thành phố lúc bấy giờ, cung thỉnh đảm nhiệm cương vị Hiệu trưởng của trường. Năm 1987, tại đại hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 -1993), ngài được suy cử cương vị Phó Trưởng Ban Trị Sự Thành hội Phật giáo kiêm Ủy viên Giáo dục Tăng ni Thành hội Phật Giáo Tp.HCM (sau này là trưởng ban giáo dục tăng ni Tp.HCM).
Từ năm 2005 đến năm 2007, do số lượng tăng ni sinh tu học ngày càng đông, ngài đã dời cơ sở trường về Chùa Thiên Minh - tọa lạc tại đường Đỗ Xuân Hợp, phường Phước Bình, quận 9 cũ (nay là TP.Thủ Đức), xây dựng và kiến tạo trường Trung Cấp Phật học, với hai lớp trung cấp và cao đẳng - là nơi đào tạo tăng tài cho giáo hội, góp phần xiển dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh, “ Tục diệm truyền đăng-Tiếp dẫn hậu lai-Báo Phật ân đức ” theo tinh thần của ngài.
Nhiều thế hệ tăng ni sinh, đã trưởng thành dưới mái trường trung cấp phật học, cho đến nay, nhiều vị có những đóng góp quan trọng trong việc phụng sự đạo pháp và dân tộc, cũng như có những vị đang giữ chức vụ lớn trong tổ chức giáo hội phật giáo việt nam.
Cho đến hôm nay, ngài vẫn là vị hiệu trưởng lớn tuổi nhất trong hệ thống giáo dục Phật Giáo Việt Nam. Các công trình tác phẩm, kinh luận của ngài soạn dịch và sáng tác đều có giá trị lớn trong việc nghiên cứu tu học của tăng ni, và phật tử việt nam, trong nước và ở nước ngoài.

* Về kinh luận:
- Pháp Hoa Kinh thâm nghĩa đề cương
- Bát Nhã Ba La Mật Kinh Trực chỉ đề cương
- Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh trực chỉ đề cương
- Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh trực chỉ đề cương
- Thủ Lăng Nghiêm Kinh trực chỉ đề cương
- Như Lai Viên Giác Kinh trực chỉ đề cương
- Chứng Đạo Ca trực chỉ đề cương
- Duy Thức Học Yếu Luận trực chỉ đề cương
- Đại Bát Niết Bàn Kinh trực chỉ đề cương
- Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh tuyển trạch tân tu
- Thủ Lăng Nghiêm Kinh tuyển trạch tân tu
- Phật Học Thông Số
*Các tác phẩm do ngài sáng tác:
- Như Huyễn Thiền Sư Thi Tập
- Những Chiếc Lá Trong Tay – Nhận thức lẽ đúng sai trên đường tu phật
- Tập thơ Ngón tay chỉ trăng (11 tập)
- Hồi Ký Nhớ Ơn Thầy
- Nhập Phật Tri Kiến.
Năm 2007, ngài kiến tạo ngôi Liễu Liễu Đường trên đồi Tà Dương, tại thôn Lạc Sơn, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng - để làm nơi tu trì, dịch kinh sách và đều đặn đăng tòa thuyết pháp cho Tăng Ni và Phật tử các giới qua hình thức trực tuyến.
Năm 2017, tại đại hội phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VIII, ngài được đại hội suy tôn Thành viên hội đồng chứng minh GHPGVN.
Năm 2022, ngài được cung thỉnh vào ban chứng minh - Ban trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ 2022-2027). Với những đóng góp của ngài cho đạo pháp và dân tộc, chủ tịch nước đã trao tặng huân chương đại đoàn kết dân tộc, và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Trong buổi lễ khánh tuế mừng thượng thọ 95 tuổi của Trưởng lão Hòa thượng Thích Từ Thông tại trường trung cấp Phật học TP.HCM, Thượng tọa Thích Hoằng Đạt, cựu Tăng sinh khóa I của trường đã đại diện Tăng Ni sinh dâng lời tác bạch:
“Phong cách giảng dạy, trách nhiệm của thầy dành cho bao thế hệ học trò vẫn còn nguyên vẹn. Những lời dạy của thầy sống mãi với thời gian và luôn hiện hữu trong tâm chúng con... Mặc dù Thầy không nhận chùa, không nhận đệ tử nhưng chính nơi đây, mái Trường Trung cấp Phật học này là ngôi chùa lớn của thầy, hàng vạn Tăng Ni đã từng ngồi trên chiếc ghế giảng đường là đệ tử của thầy. Chúng con kính nguyện thầy sẽ có nhiều sức khỏe để mỗi năm đến ngày tiếp nối thầy, chúng con được trở về thăm và chúc thọ thầy”, Thượng tọa nói thay lời cho các thế hệ học trò của Trưởng lão Hoà thượng Thích Từ Thông.

Hòa thượng Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN, vị giáo phẩm cộng sự đã gắn bó nhiều năm với Trưởng lão Hòa thượng đã có lời chia sẻ:
“Trưởng lão Hòa thượng đã gắn bó với Trường Trung cấp Phật học TP.HCM từ những ngày khai sáng đến nay đã hơn 32 năm. Ngài là một vị giảng sư uyên thâm thông tạng giáo điển kinh, luật, luận; là bóng mát to lớn cho toàn thể chư tôn đức và Tăng Ni sinh Trường Trung cấp Phật học nương tựa".
Hòa thượng Thích Giác Toàn đã dâng bài thơ “Ngát tòa lưu ly” khánh thọ Trưởng lão Hòa thượng:
KÍNH vô biên, đức sâu dày
MỪNG cửu thập ngũ tuế hương mai ngút ngàn
THỌ long lanh đẹp sen vàng
TRƯỞNG dưỡng phúc báo đạo tràng xương minh
LÃO tùng trúc thắm hữu tình
HÒA đời,hòa đạo tâm linh phổ đồng
THƯỢNG nhân thượng trí tươi hồng
THÍCH mâu ni rực tông phong ta bà
TỪ bi hỷ xả thăng hoa
THÔNG thiên thông địa ngát tòa lưu ly
HIỆU triệu bi dũng hùng uy
TRƯỞNG tăng chơn tánh tổn